Bướu giáp đơn nhân là tình trạng tuyến giáp xuất hiện một khối u hay nhân giáp. Bướu đơn nhân tuyến giáp có thể lành tính dễ dàng điều trị hoặc ung thư tuyến giáp. Cùng Hệ thống Y tế Medic tìm hiểu rõ hơn về nguyên nhân, dấu hiệu, phương pháp điều trị và các thông tin liên quan đến bệnh bướu giáp đơn nhân qua bài viết dưới đây.
Nội dung chính
Bướu giáp đơn nhân là gì?
Bướu giáp đơn nhân (hay còn gọi là bướu giáp đơn hoặc bướu giáp tiểu cầu) là một loại bướu giáp, một bệnh lý tuyến giáp. Đây là tình trạng tuyến giáp xuất hiện một khối u hay nhân giáp. Bướu đơn nhân tuyến giáp thường là u thực thể, chứa các tế bào của một hoặc nhiều loại tế bào tuyến giáp, bao gồm cả tế bào follicular, tế bào C, tế bào oxyphil và parafollicular.
Người bị bướu giáp đơn nhân thường không nhận biết được các triệu chứng nào ban đầu. Trong một số trường hợp có thể cảm nhận phía trước cổ căng tròn. Bướu có thể tăng kích thước dần dần, gây ra các triệu chứng như khó thở, khó nuốt, gây áp lực lên các cơ và dây thần kinh xung quanh vùng cổ.
Các dạng bướu giáp đơn nhân
Bướu giáp đơn nhân có thể xuất hiện ở nhiều dạng khác nhau, tùy thuộc vào kích thước, có độ hay không, có gây ung thư không. Về cơ bản bướu đơn nhân tuyến giáp được chia thành 2 dạng bao gồm:
Bướu giáp đơn nhân lành tính
Bướu giáp đơn nhân lành tính được chia thành các dạng:
Adenoma tuyến giáp
Là các khối u tân sinh lành tính, thường được phân loại thành dạng nhú hoặc dạng nang. Đây là dạng nhân phát sinh từ biểu mô nang trong tuyến giáp. Adenoma thường là các khối u đơn độc, đồng nhất. Chúng khác nhau về mặt mô học với các mô tuyến giáp lân cận. Adenoma được phân loại theo số lượng, kiến trúc tế bào và dịch keo trong nang thành các nhóm: phôi (không điển hình), colloid (macrofollicular), (dạng microfollicular) và Hürthle (oxyphil).
Nhân giáp tăng sinh
Nhân giáp tăng sinh được phân biệt với các nhân khác thông qua sự hiện diện số lượng tế bào quá mức, nhú, dạng acari và lượng keo có trong mẫu.
Nang tuyến giáp
Nang tuyến giáp được chẩn đoán nhờ hút dịch từ một nốt tuyến giáp, chiếm 15- 25% trong tất cả các nhân tuyến giáp. Nguyên nhân hình thành nang này là do nang xuất huyết, sự thoái hóa nang tuyến giáp bình thường, nang chấn thương. Hoặc do dị dạng nhánh liên quan, hoại tử u tuyến giáp.
Bướu giáp đơn nhân ác tính
Bướu giáp đơn nhân ác tính thường được biểu hiện bởi các dạng sau
- Ung thư biểu mô nhú
- Ung thư biểu mô tế bào HURTLE
- Nang Adenoma
- Ung thư biểu mô kém biệt hóa
- Sarcoma, u quái
- Lymphoma tuyến giáp tiên phát
Các dấu hiệu, triệu chứng bướu giáp đơn nhân
Phần lớn bướu giáp nhân đa không có biểu hiện rõ ràng, bệnh nhân thường phát hiện bệnh tình cờ khi khám định kỳ. Một số dấu hiệu nổi bật của bệnh bao gồm:
Dấu hiệu cơ năng: nuốt vướng, có cảm giác đè, ấn ở vùng tuyến giáp, mệt mỏi, nóng trong, sút cân rối loạn tiêu hoá,…
Khi kích thước nhân gia tăng sẽ chèn vào lồng ngực, dẫn đến tình trạng tắc nghẽn khoang lồng ngực gây ra “hiện tượng nút chai giáp trạng”. Triệu chứng gồm: thở hụt hơi, tắc nghẽn dòng chảy tĩnh mạch, giãn mạch cổ, phù cổ, phù mặt. Triệu chứng do bướu giáp đè nén khí quản là cảm giác nghẹt thở, khó thở, muốn ho, buồn ngủ.
Triệu chứng thực thể: tay run, lồi mắt, tuyến giáp có nhân căng, di chuyển theo nhịp nuốt, sờ thấy chắc, ấn không đau. Một số triệu chứng khác như nhịp tim tăng, nếu nhiễm độc giáp kéo dài có thể gặp biến chứng về tim mạch. Các triệu chứng hiếm gặp hơn là tê liệt dây thần kinh nhẹ hoặc vĩnh viễn.
Nguyên nhân gây ra bệnh bướu giáp đơn nhân
Bướu giáp đơn nhân có thể xuất hiện do nhiều nguyên nhân khác nhau. Các nguyên nhân này thường không rõ ràng, đến từ nhiều yếu tố. Dưới đây là một số nguyên nhân tiềm năng gây bướu đơn nhân tuyến giáp:
Thiếu I-ốt
I-ốt là nguyên tố quan trọng trong quá trình sản xuất của hormone giáp. Thiếu i-ốt trong chế độ ăn uống có thể dẫn đến hình thành và phát triển bướu giáp. Đây là nguyên nhân chính gây ra bướu giáp ở các khu vực i-ốt thiếu hụt, gây ra bướu giáp do thiếu i-ốt.
Yếu tố di truyền
Có yếu tố di truyền có thể làm gia tăng nguy cơ mắc bướu giáp. Nếu trong gia đình có người thân mắc bướu giáp, người bệnh cũng có nguy cơ mắc bệnh này cao hơn.
Môi trường và tác nhân ngoại vi
Môi trường và tác nhân ngoại vi là tác nhân gây ra bướu giáp. Chẳng hạn, các tác nhân gây ô nhiễm môi trường, chất độc hại hoặc thuốc lá có thể ảnh hưởng đến tuyến giáp và gây ra bướu.
Giới tính và tuổi tác
Bướu giáp đơn nhân thường phát triển ở phụ nữ nhiều hơn so với nam giới. Tuổi tác cũng là yếu tố gây bướu đơn nhân tuyến giáp. Người trên 50 tuổi có nguy cơ mắc bệnh cao hơn.
Tiền sử bệnh lý
Các bệnh khác liên quan đến tuyến giáp, chẳng hạn như viêm giáp Hashimoto có nguy cơ mắc bướu giáp đơn nhân cao hơn.
Phương pháp chẩn đoán bệnh bướu giáp đơn nhân
Phương pháp chẩn đoán bệnh bướu giáp đơn nhân cụ thể phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tình trạng, triệu chứng bệnh. Cụ thể:
Kiểm tra và chẩn đoán lâm sàng
Bác sĩ thực hiện kiểm tra lâm sàng để đánh giá triệu chứng của bệnh như sưng mắt, khó thở hoặc các vấn đề khác liên quan đến tuyến giáp.
Siêu âm tuyến giáp (Thyroid ultrasound)
Siêu âm tuyến giáp là phương pháp sử dụng sóng siêu âm để tạo ra hình ảnh tuyến giáp. Kết quả siêu âm cho phép xem kích thước và cấu trúc của bướu, xác định xem là bướu đơn hay bướu giáp đa nhân và kiểm tra các dấu hiệu bất thường.
Xét nghiệm chức năng tuyến giáp (Thyroid function tests)
Xét nghiệm huyết thanh, bao gồm đo lượng hormone giáp TSH (thyroid-stimulating hormone), T4 (thyroxine) và T3 (triiodothyronine). Các chỉ số này đánh giá chức năng tuyến giáp, xác định xem tuyết giáp có đang hoạt động bình thường hay có dấu hiệu cường giáp hay suy giáp nào không.
Xét nghiệm chức năng nội tiết khác
Trong trường hợp bác sĩ nghi ngờ có dấu hiệu bệnh lý tuyến giáp khác, có thể thực hiện một số xét nghiệm khác như: Kiểm tra calcium, PTH (parathyroid hormone) và calcitonin.
Puncture-aspiration biopsy (Fine-needle aspiration or FNA)
Nếu bướu có dấu hiệu bất thường hoặc nghi ngờ là bướu ác tính, bác sĩ sẽ tiến hành sinh thiết mẫu tế bào. Mẫu tế bào nhân bướu giáp được hút ra bằng cách sử dụng dụng kim nhỏ thông qua da. Mẫu tế này sẽ được kiểm tra dưới kính hiển vi. Đây là phương pháp hiệu quả để xác định liệu bướu có chứa tế bào ung thư hay không.
Xét nghiệm chức năng tuyến giáp trong quá trình FNA
Trong một số trường hợp, xét nghiệm chức năng tuyến giáp được thực hiện sau khi thu thập mẫu tế bào từ bướu. Sinh thiết giúp xác định xem bướu có ảnh hưởng đến chức năng tuyến giáp không.
Cách điều trị bướu giáp đơn nhân
Dựa vào kết quả chẩn đoán cũng như kích thước, tình trạng bướu giáp đơn nhân mà bác sĩ sẽ chỉ định các phương pháp điều trị phù hợp với người bệnh. Cụ thể phương pháp điều trị dựa vào bướu giáp có độc hay không, có tế bào ung thư hay không. Có 3 phương pháp điều trị bướu đơn nhân tuyến giáp bao gồm:
- Phẫu thuật
- Điều trị bằng Iod phóng xạ
- Hormon tuyến giáp
Thuốc điều trị Hormon tuyến giáp
Thuốc giáp (thyroid hormone) được sử dụng để điều trị bướu giáp đơn nhân nhỏ, bướu giáp lành tính với các triệu chứng thông thường. Thuốc điều trị Hormon tuyến giáp giúp duy trì mức hormone tuyến giáp bình thường trong cơ thể. Phương pháp này thường được bác sĩ chỉ định cho đối tượng bệnh nhân nhỏ tuổi, kích thước nhân giáp nhỏ.
Phẫu thuật loại bỏ bướu
Nếu bướu giáp đơn nhân ác tính, kích thước lớn, gây khó chịu với các triệu chứng nghiêm trọng, bướu phát triển quá lớn, phẫu thuật được xem là phương pháp tối ưu nhất. Trong quá trình phẫu thuật, bác sĩ có thể cắt bỏ một phần hoặc toàn bộ tuyến giáp của bệnh nhân.
Điều trị bằng Iod phóng xạ (I-131)
Trong trường hợp bướu giáp đơn nhân do sự sản xuất quá mức của hormone giáp, bác sĩ thường chỉ định điều trị bằng Iod phóng xạ (I-131). Phương pháp này giúp giảm kích thước của tuyến giáp. Quá trình này thường mất thời gian, yêu cầu theo dõi bằng các xét nghiệm chức năng tuyến giáp.
Theo dõi và kiểm tra định kỳ
Nếu bướu giáp đơn nhân lành tính và không gây ra triệu chứng nghiêm trọng, không có nguy cơ biến thành bướu giáp ác tính (cancer) bệnh nhân không cần điều trị. Tuy nhiên cần theo dõi và kiểm tra định kỳ bướu.
Hệ thống Y tế Medic vừa chia sẻ thông tin chi tiết về bướu giáp đơn nhân đến các bạn. Hi vọng sẽ giíp ích trong việc phòng ngừa bệnh này.